Thứ Năm, 3 tháng 3, 2016

100 NĂM NGÀY SINH THI SĨ YẾN LAN

yenlan
Yến Lan (1916-1998)
NGUYỄN TRỌNG TẠO: Trước sinh nhật nhà thơ Yến Lan 1 ngày, hôm nay ngày 1 tháng 3 năm 2016, Hội Nhà Văn VN tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Còn nhớ tháng Tư 1985, tôi cùng vợ chồng nhạc sĩ Văn Cao, Thanh Thảo, Nguyễn Thụy Kha và Từ Quốc Hoài ghé thị trấn An Nhơn thăm nhà thơ Yến Lan (tác giả bài thơ Bến My Lăng). Ông đang bệnh nằm bẹp trên giường, nghe bà Lan vợ ông lay gọi: “Ông ơi, ông Văn Cao đến thăm ông!” Thế là ông vùng ngồi dậy, ôm chầm lấy Văn Cao như hai người bạn chí cốt quá lâu ngày gặp lại. Rồi ông lục tìm trên giá sách cũ kỹ, mang ra tập thơ “Những ngọn đèn” xuất bản năm 1957 có lời đề tựa của Văn Cao.
Chúng tôi nhìn cảnh đó, ai cũng xúc động khôn tả. Ngồi giữa vùng đất kinh đô Chăm-pa này ngắm thân hình tiều tụy của người thi sĩ, tôi bỗng nhớ câu thơ ông viết mà hồi nhỏ mình đã nhập tâm: “Chiếm hồn ta như chiếm một kinh thành”. Và tôi đọc lại câu thơ đó cho ông nghe. Một chút ngỡ ngàng, mắt ông bỗng sáng lên và nói: “Đúng là câu thơ đó của tôi, nhưng lâu rồi, cùng ít khi nhớ lại”.
Vâng, nhà thơ Yến Lan là thế, ông để lại cho đời rất nhiều bài thơ đẹp, còn ông thì âm thầm, lặng lẽ trở về với “tỉnh nhỏ đìu hiu”… Và ông đã cập Bến Vĩnh Hằng vào ngày 5 tháng 10 năm 1998, nhằm vào đêm trăng sáng nhất – Rằm Trung Thu.
Nhân ngày kỷ niệm 100 năm ngày sinh thi sĩ Yến Lan, xin giới thiệu cùng bạn bài viết của Lâm Bích Thủy, ái nữ của ông: 
                                       

 Nỗi lòng của con nhân ngày giỗ cha là thi sĩ

LÂM BÍCH THỦY
Cha tôi ra đi đúng vào Rằm Trung thu (15-8-1998). Hàng năm, cứ gần đến ngày, mẹ tôi lại chộn rộn nhắc các con, dù ở xa cũng về quê để làm giỗ. Nay, mẹ không còn, biết ai thay mẹ nhắc nhở! Song có một điều, đối với cha tôi, ông còn là một người thầy nhân từ, trọng tình, trọng nghĩa với đời, với người; cho dù không ai nhắc, chị em tôi ở hai đầu đất nước, cứ đến Rằm là tự khắc rủ nhau về nơi mà cha đã ra đi, thắp cho ông nén tâm hương tường nhớ để cha đỡ cô quạnh ở nơi suối vàng!
Chắc có bạn biết, cha tôi – nhà thơ Yến Lan-một trong bốn nhà thơ của Bàn Thành Tứ Hữu – đó là dải đất mà người đời thường tâm đắc: “Bình định là đất võ nhưng ẩn chứa trong mình những bí ẩn về văn chương”. Ngoài bút danh Yến Lan, người ta còn gọi ông là Linh Lân. Tên ấy, do ông Trần Thống, ở Kiên Mỹ (quê vợ nhà thơ Quách Tấn), đại diện người yêu thơ lúc bấy giờ, lấy tên bốn con linh vật để đặt cho: – Hàn Mặc Tử-long, Yến Lan-lân, Quách Tấn-qui, Chế Lan Viên-phụng. Tuy ngẫu hứng gọi cho vui, nhưng nó lại vận đúng vào nhân cách và phong thái thơ từng người một cách kỳ lạ…
Đối với linh lân, nếu bạn nào chưa biết, hãy xem bài viết của nhà văn Lê Hoài Lương (Báo Bình Định 5/10/2008):
“Ôi cái sự tình của ông, sao nghĩ tới thấy buồn thương.
Trong nhóm thơ Bình Định, ông là linh Lân. Lân, vận vào ông sao đúng thế. Sách xưa mô tả lân là linh thú, mình giống nai, đuôi giống trâu, móng như ngựa, lưng có lông ngũ sắc, bụng thì vàng, một sừng. Đặc biệt đây là con thú nhân đức, không ăn các sinh vật, đi cỏ không nát! Ông hiền lành đức độ một đời, văn nhân thi hữu nhiều lứa tuổi khác nhau đều chung nhận xét này. Linh lân lành hiền và từng chói sáng trên thi đàn với “Nhóm thơ Bình Định” và “Trường thơ loạn” ít nhất tới giờ mọi người vẫn ngưỡng mộ với Bến My Lăng và Bình Định 1935. Riêng Bến My Lăng cái bến thơ đẹp lộng lẫy và kỳ ảo không thể thiếu trong danh mục những bài thơ hay nhất nước Việt Nam thế kỷ XX !….
Ông đã về với cái bến trăng huyền ảo của ông cách đây đúng 10 năm (nay là 17 năm – NV). Lạ lùng thay lại nhằm đúng vào đêm trăng đẹp nhất trong năm: Trung thu. Ông lặng lẽ về với trăng trong niềm hân hoan lớn của trẻ nhỏ tùng cắc múa lân, ông – con linh-thú-lân lành hiền đi không làm đau cỏ!” 
*
Trong hơn 60 năm cầm bút, tại vùng đất võ Bình Định, cùng thời với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… nếu kể về công và tâm huyết cho quê thì Yến Lan không kém cạnh ai về tài, tri thức, tầm và sự sáng tạo trong nghệ thuật. Nhưng, thật công tâm mà nói thì không ai gắn bó với quê hương xứ sở bằng Yến Lan. Với quê, nơi chôn nhau cắt rốn, ông dành tình cảm của mình vào bốn bài thơ: Bình Định 1935, Bình Định 1945, Bình Định 1947 và Bình Định 1976. Ông đã làm cho thị xã An Nhơn nói riêng và Bình Định nói chung trở nên bất hủ, để người người yêu thơ tìm đến chiêm ngưỡng, bởi vì có cái “Bến My Lăng” do ông đặt tên. Hơn thế nữa, thơ Ông viết về Bình Định với niềm  tự hào và vui sống bình dị, thanh bình ở miền có nhiều ánh trăng huyền hoặc. Nhưng đằng sau cái vẻ rất đời thường ấy trong Ông ẩn chứa cả một cuộc tự thanh lọc để giữ chất người của chính mình.
Sự nghiệp văn chương ông chọn để mưu sinh và tâm huyết cả đời, ông đã nghiệm ra nhiều điều và tự đánh giá mình bằng lời trăng trối với con khi biết qũi thời gian không còn nhiều, ông gọi hai con gái lớn lại và nói:
“Riêng hai con là phận gái ba mới nói điều này, ba nghèo không có gì để lại cho hai con, nhưng bù lại, suốt đời ba đã phấn đấu, đến giờ các con có quyền tự hào-mình là con của một người làm thơ biết tự trọng và khiêm tốn. Điều này còn quí hơn châu báu, tiền bạc, nhà cửa…”  Thực ra, ông không biết rằng, chúng tôi đã rất tự hào về người cha thi sĩ của mình; bởi vì hai đức tính này nghe thì rất bình thường, nhưng đã mấy ai làm được, nhất là vào những thời điểm mà chân giá trị đích thực của con người chưa được đặt đúng vị trí.
Tài năng của ông ư? Vì ông là một nhà thơ khiêm nhường nên ít ai quan tâm đến! Nhưng, ít ai biết, ngay những ngày mới đặt chân lên đất Bắc, khi Bác Hồ kêu gọi các văn nghệ sĩ soạn “Cương lĩnh mặt trận Tổ quốc diễn ca” để truyền bá trong nhân dân. Cùng soạn với ông, còn có 16 nhà thơ khác; nhưng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn tác phẩm của Yến Lan.
Nhà thơ Hữu Thỉnh – Phó Tổng thư ký thường trực Hội nhà văn Việt Nam, tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan, tổ chức ở Hà Nội, ngày 8-10-1998, đã sơ lược quá trình hoạt động nghệ thuật của Yến Lan:
“…Tài năng của Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan bút danh là Xuân Khai được thưởng giải cao của báo Thanh Nghệ Tĩnh khi Yến Lan chưa đầy hai mươi tuổi. Truyện ngắn của Yến Lan liên tục được giới thiệu trên các tờ Tiểu thuyết thứ hai, Tiểu thuyết thứ năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông. Đoàn kịch Yến Lan với vở “Bóng giai nhân” đã từng lưu diễn ở Huế, Hà Nội. Thanh Hóa”…
Còn trong Cách mạng  và 9 năm kháng chiến, đóng góp của Yến Lan cũng được nhà giáo dạy triết học tại Trường Đại học Qui Nhơn, thầy Cao Kế cho rằng:  “Nếu có một tác giả nào sau này viết về lịch sử thơ ca Cách mạng của Việt Nam và tỉnh Bình Định thì phải thấy cho hết con người Yến Lan đã đóng góp như thế nào và đánh giá cho đúng cái tác dụng to lớn những bài thơ Yến Lan đã viết khá hay trong những ngày đầu Cách mạng như: “Bình Định 1947”, một bài thơ mà nội dung phục vụ Cách mạng kịp thời và về phương diện nghệ thuật ai cũng phải công nhận là một bài thơ rất hay.
Chính những bài thơ ông làm lúc này đã có tác động đến đội ngũ trí thức làm cho họ tin vào Cách mạng và theo Cách mạng…”
Trước những đóng góp thầm lặng của Yến Lan cho nền Văn học Việt Nam và tỉnh Bình Định, Nhà thơ Trần Ninh Hồ đã chia sẻ nỗi day dứt trong lòng: “Vị trí của Yến Lan lớn, nhỏ đến đâu trong thi đàn nước nhà, điều đó còn chờ sự lắng đọng của nhận thức, phẩm bình và thời gian; nhưng có điều dễ thấy ở Yến Lan: Ông là một thi tài thật sự đặc sắc!”
Năm nay 2015, là ngày giỗ thứ 17 của Yến Lan; tính ra, một khoảng thời gian cũng không phải là ngắn so với đời thi sĩ. Trải qua khoảng thời gian đó, những oan trái đối với nghệ sĩ trong cái gọi là Nhân văn Giai phẩm, người ta đã sửa sai, người từng bị gán tội oan đã được hoàn lại đúng giá trị, phẩm giá và tài năng, như nhạc sĩ, Văn Cao, nhà thơ Nguyễn Bính, nhà thơ Quang Dũng v.v… đã và đang được Đảng, nhà nước khôi phục quyền lợi mà họ rất xứng đáng được quyền hưởng. Đã có những con đường, trường học mang tên Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, và cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nơi các ông sinh ra và tại thành phố lớn. Dẫu với Yến Lan, chỉ có thể có tại Qui Nhơn thôi, thì hầu như ông đang bị dần đi vào sự lãng quên, mặc dù khắp các trang web trên mạn dày đặc những thông tin về nhân cách, tài, đức của ông mà với bạn vong niên, đồng niên không thể phủ nhận được; thế mà Ông không có nổi một con đường đàng hoàng ở thị xã An Nhơn, hay Thành phố Qui Nhơn mang tên ông, hay một phòng lưu niệm để lưu giữ những kỷ vật có thể là báu vật cho các thế hệ mai sau.
“Nhớ đến Yến Lan là người ta nhớ đến một nhà thơ, suốt đời ông sống cho thơ và cho quê, cho đến phút chót… Ông là con người của thơ ca, là những gì mà thơ mang trong mình nó: Thanh sáng, tinh túy và cao thượng. Ông yêu thơ trong thầm lặng như một mối tình dài (…), người làm thơ lớp sau gọi là “bố già” của loại thơ tứ tuyệt, tưởng đã mấy người được như thế” (Ngô Văn Phú).
“Theo cảm nghĩ của tôi, với tài năng và sức lan tỏa của cụ, đáng lẽ cụ phải được quê
hương nhìn nhận ngay từ nhiều năm trước. Nhưng những ngày có hân hạnh hầu chuyện cụ Yến Lan, tôi biết tính cụ, ôn tồn, hòa nhã và hết sức tự trọng. Cho dù sự thiệt thòi luôn luôn xảy ra thuở sinh thời, điều ấy có hề chi với con người đã đi qua bao thăng trầm nhân thế, lặng lẽ trọng nghĩa nhân và ái ngại trước trò chơi phù thế ồn ào” – (Nguyễn Thanh Mừng).
Và người đọc cho rằng, “Thơ tứ tuyệt tài hoa của thi sĩ Yến Lan, những bài thơ như là sự chắt chiu cả cuộc đời lao động nghệ thuật miệt mài và tâm huyết. Nhưng việc nghiên cứu và xuất bản thơ Yến Lan vẫn còn quá ít ỏi, chưa xứng với những đóng góp của ông cho thi ca dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Yến Lan để góp phần xác định vị trí vốn có và những đóng góp của ông trong nền thi ca nước nhà là việc làm cần thiết”
Dẫu rằng thời gian gần đây, một số bài báo trên báo chí cũng như các tạp chí chuyên ngành có quan tâm hơn đến tên tuổi Yến Lan và sự nghiệp văn thơ của ông. Có thể kể ra đây một số cái tên đáng chú ý như: Trần Minh Nguyệt, Xuân Tùng, Trần Ngọc Tuấn, Trần Hoàng Nhân, Mang Viên Long, Duy Phi… nhưng những cây bút trên mới dừng ở kể lại những dòng hồi ức gắn với nhà thơ Yến Lan, những kỉ niệm đẹp về con người chí tình chí nghĩa ấy chứ chưa có một công trình tập hợp đầy đặn nào mang tính nghiên cứu hay hội thảo về thơ Yến Lan như những nhà thơ khác.
Ngưỡng mộ tài, đức Yến Lan, nhà thơ Trúc Thông, một tác giả cách tân thơ Việt Nam hiện nay, nhận xét về thơ tứ tuyệt của Yến Lan đầy cảm phục: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm… Trong tứ tuyệt Yến Lan thường nén lại một nông nỗi thở dài. Có khá nhiều cám cảnh. Nhưng cốt cách nghệ sĩ, cốt cách tứ tuyệt đã gây cho người đọc một sự kính trọng”.
Ấy vậy mà những ghi nhận lặng lẽ đó không làm thay đổi được cách nhìn của quê huơng Bình  Định đốì với Yến Lan. Bởi, là con của ông, làm sao tôi có thể trả lời, giải thích những câu hỏi mà chỉ những người có trách nhiệm cao nhất về Văn học Việt Nam hay của tỉnh Bình Định mới trả lời được.
Song nặng lòng hơn là sự hoài nghi …
“Tôi thích thơ Yến Lan từ thưở học phổ thông. Ông là một tài năng thơ và một nhân cách mà thời đại ông không đủ bản lãnh và lòng tốt để chấp nhận. Cho nên nếu có bi kịch đến với ông thì hãy biến điều ấy thành thơ” – Lê Hồng Ân
(Bài viết dành gửi: Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Hữu Thỉnh và Chủ tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Bình Định)
_______
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Yến Lan sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916, quê tại thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông nội Yến Lan là nhà nho, thuộc dòng Minh Hương ở Phúc Kiến.[1] Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết văn. Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Trong giai đoạn này, ông cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên sáng tác theo trường phái Thơ loạn (còn gọi là Thơ điên) với những trăng, xương, máu, hồn ma… trong thơ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Uỷ viên văn hoá Cứu quốc Bình Định (1947–1949); là Uỷ viên văn hoá kháng chiến Nam Trung Bộ, trưởng đoàn kịch Kháng chiến. Từ 1950 đến 1954 ông làm công tác văn hoá văn nghệ ở Bình Định. Sau 1954, Yến Lan tập kết ra Bắc, trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957, làm việc tại Nhà xuất bản Văn học và tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, ông trở về công tác tại Hội văn nghệ Bình Định và mất tại đây ngày 5 tháng 10 năm 1998.
Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét